Năm điều đáng mong đợi trong nghiên cứu ung thư năm 2019

Những nội dung chính
1. Liệu pháp miễn dịch. Ai sẽ đáp ứng tốt, ai sẽ không và tại sao?
Hiện tại liệu pháp miễn dịch dường như ở khắp mọi nơi, với một số phương pháp điều trị được phê duyệt cho các loại ung thư khác nhau, bao gồm tế bào T CAR, chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch và liệu pháp tế bào lympho xâm nhập khối u (TIL). TILs đã loại bỏ thành công tất cả các khối u từ một phụ nữ bị ung thư vú di căn, trong một bước đột phá nghiên cứu được báo cáo nhiều nhất vào năm 2018, nhưng cho đến nay, TILs vẫn chưa được chứng minh trong các thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn hơn.
Hơn 2.500 thử nghiệm sử dụng liệu pháp miễn dịch hiện đã được đăng ký trên toàn thế giới, nhưng khi việc sử dụng các phương pháp điều trị này phát triển, vẫn còn nhiều câu hỏi lớn cần được trả lời. Một điều đặc biệt quan trọng đối với việc sử dụng các loại thuốc chặn điểm kiểm soát miễn dịch, chẳng hạn như những thuốc nhắm mục tiêu PD-1 hoặc CTLA-4 là ‘tại sao một số bệnh nhân đáp ứng trong khi những người khác thì không?’ Một số nhóm nghiên cứu trên toàn thế giới hiện đang vật lộn với câu hỏi này, không chắc có câu trả lời rõ ràng, nhưng chúng ta hy vọng sẽ thấy nhiều nghiên cứu hơn được công bố vào năm 2019 này, hy vọng sẽ bắt đầu có lợi cho bệnh nhân bằng cách xác định ai sẽ có thể hoặc không thể đáp ứng với các loại thuốc đắt tiền này.
2. Xét nghiệm sinh thiết lỏng. Chính xác và rõ ràng hơn
Ngành sinh thiết lỏng bùng nổ vào năm 2018, có lẽ không có gì ngạc nhiên khi thị trường dự kiến sẽ trị giá hơn 2 tỷ đô la hàng năm vào năm 2022. Chúng ta sẽ có thể chẩn đoán ung thư bằng xét nghiệm máu đơn giản, rẻ hơn và thậm chí chính xác hơn chúng ta hiện đang làm. Nghiên cứu đã đề nghị các nhà khoa học có thể sử dụng các xét nghiệm này để theo dõi phản ứng của khối u với điều trị ung thư, xem xét liệu khối u trở lại hay không và khi nào chúng quay lại. Tuy nhiên, số lượng tài liệu nghiên cứu, thuyết trình tại các hội nghị hàng đầu và các bản tin mới của hàng chục công ty hiện đang phát triển các công nghệ này có thể khiến nó trở nên quá tải và khó tìm hiểu hết được thông tin.
Năm 2018, hai trong số các xét nghiệm sinh thiết lỏng hàng đầu trên thị trường của các nhà nghiên cứu từ Johns Hopkins cho thấy hai xét nghiệm cạnh tranh cho kết quả khác nhau với cùng một mẫu bệnh nhân.
Các xét nghiệm sinh thiết lỏng chắc chắn có tiềm năng rất lớn và thực sự có thể phát triển mạnh trong tương lai, nhưng hiện tại, lĩnh vực này hơi lộn xộn và khó hiểu đối với các nhà khoa học, bệnh nhân và bác sĩ ung thư không phải là bác sĩ chuyên khoa. Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO) đã ban hành một tuyên bố vào tháng 3/2018 về cơ bản kết luận rằng đối với hầu hết các xét nghiệm sinh thiết lỏng, hiện tại không có đủ bằng chứng để khuyến nghị sử dụng trong chẩn đoán hoặc theo dõi ung thư. Hy vọng, năm 2019, xét nghiệm này có thể phù hợp hơn với chẩn đoán và chăm sóc của những người mắc bệnh ung thư và ASCO sẽ có thể xem xét lập trường của họ cho phù hợp.
3. Tập trung hơn vào tác dụng phụ của điều trị ung thư
2018 là một năm đáng chú ý về nghiên cứu các trải nghiệm tác dụng phụ và cuộc sống của những người sống sót sau ung thư. Trong nhiều thập kỷ, nghiên cứu về ung thư chủ yếu tập trung vào việc đảm bảo càng nhiều người sống sót càng tốt, nhưng bây giờ với hàng triệu người sống sót sau ung thư trên thế giới, một lĩnh vực nghiên cứu mới xem xét những gì thực sự xảy ra với những người sống sót sau ung thư cũng như hiệu quả thực sự của phương pháp điều trị đang phát triển với tốc độ đáng kể.
Từ một nghiên cứu hy vọng tìm ra giải pháp cho vô sinh nam sau điều trị ung thư ở trẻ em cho thấy rằng một số phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn đầu có thể điều trị bằng xạ trị ít hơn mà không ảnh hưởng đến cơ hội sống sót của họ, năm 2018 là một năm tốt cho nghiên cứu sống sót ung thư. Điểm nổi bật là công trình từ các nhà khoa học của Đại học Stanford, nghiên cứu này có thể đã tìm ra lý do tại sao ‘não hóa trị’ (chemo brain) xảy ra, một trong những tác dụng phụ được báo cáo phổ biến nhất mà những người sống sót sau ung thư gặp phải. Thậm chí tốt hơn, các nhà khoa học cho rằng nó có thể được điều trị.
4. Ung thư và hệ vi sinh vật
Hệ vi sinh vật đã là một trong những chủ đề được nói đến nhiều nhất trong y học năm 2018 và không có dấu hiệu chậm lại. Trong bối cảnh có thể dự đoán được các chất bổ sung, chế độ ăn kiêng và các bài đăng trên blog đưa ra lời khuyên có tính khoa học cho bạn biết cách trân trọng và nuôi dưỡng hệ thực vật đường ruột của riêng bạn, rất nhiều nghiên cứu dựa trên bằng chứng vững chắc đã được công bố cho thấy hệ vi sinh vật có khả năng tham gia vào nhiều bệnh xơ cứng, bệnh viêm ruột và thậm chí bệnh Alzheimer. Nhưng ung thư thì sao?
Đã có một số nghiên cứu được công bố cho thấy hệ vi sinh có thể ảnh hưởng đến phản ứng với thuốc hóa trị và thậm chí trong một số trường hợp gây ra việc sản xuất các sản phẩm phân hủy độc hại của thuốc. Đầu tháng 12/2018, công trình được công bố trên tạp chí Nature Communications đã chỉ ra làm thế nào một chủng vi khuẩn đặc biệt phổ biến trong hệ vi sinh vật ở người có thể ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch nhằm thúc đẩy sự tiến triển của một loại ung thư máu hiện không thể chữa được gọi là đa u tủy. Nghiên cứu nêu ra khả năng nhắm mục tiêu các vi khuẩn này bằng thuốc có thể ngăn chặn hoặc làm chậm bệnh.
5. Organoids, vũ khí bí mật mới trong y học ung thư cá nhân
Organoids (chất hữu cơ), các cơ quan nhỏ lấy từ các mẫu mô bệnh nhân được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm sẽ cách mạng hóa việc điều trị ung thư bằng cách cho phép các nhà nghiên cứu thử nghiệm thuốc trên khối u của bệnh nhân trước khi quyết định điều trị cho bệnh nhân. Một số công ty dược phẩm và công nghệ sinh học có các chương trình quy mô lớn để phát triển thương mại các công nghệ này nhằm sử dụng các chất hữu cơ trong sàng lọc thuốc cho bệnh nhân và tăng khả năng tiếp cận của các bộ dụng cụ nuôi cấy organoid.
Nhưng điều này không có nghĩa là organoid là một cách hoàn hảo để thử nghiệm các loại thuốc mới. Ví dụ, thật dễ dàng và nhanh chóng để tạo ra các organoid từ một số loại khối u – chẳng hạn như đại trực tràng, nhưng rất khó từ các loại khác như khối u não. Các bộ phận được nuôi trong phòng thí nghiệm cũng không có nguồn cung cấp máu, chúng cũng không được kết nối với các hệ thống cơ thể khác có thể ảnh hưởng đến phản ứng của bệnh nhân với thuốc chống ung thư. Nhưng các nhà nghiên cứu đang đạt được tiến bộ trong việc phát triển organoid, tìm ra những cách tốt hơn để tạo và nuôi cấy chúng giúp phản ánh chính xác hơn khối u mà chúng được tạo ra ban đầu. Hy vọng rằng, điều này sẽ đóng vai trò ngày càng tăng trong việc thiết kế các phương pháp y học cá nhân cho bệnh nhân ung thư cũng như tham gia vào các đột phá ung thư dựa trên phòng thí nghiệm nhiều hơn.